Luật quản lý nhập cảnh và xác định tị nạn (Luật nhập cảnh) bao gồm các chương sau:
Chương I – Nguyên tắc chung, Chương II – Nhập cảnh và cập bến, Chương III – Thủ tục cập bến, Chương IV – Cư trú và xuất cảnh, Chương V – Thủ tục trục xuất, Chương VI – Trách nhiệm của chủ tàu và nhà vận chuyển, Chương VII – Điều tra sự thật, Chương VIII – Người Nhật xuất cảnh và quay trở về, Chương IX – Quy định bổ sung, Chương X – Hình phạt.
của Luật nhập cảnh
Mục đích của Luật nhập cảnh, như quy định trong Điều 1, là quản lý công bằng việc nhập cảnh và cư trú của tất cả mọi người nhập cảnh hoặc xuất cảnh từ Nhật Bản.
Người nước ngoài
Người nước ngoài được định nghĩa là những người không có quốc tịch Nhật (theo Điều 2 của Luật nhập cảnh). Người có quốc tịch kép cũng được coi là người Nhật.
VISA
VISA ban đầu được hiểu là thị thực, khác với tư cách lưu trú mà chúng tôi, những người làm công tác hành chính, xử lý. Tuy nhiên, thuận tiện, cả thị thực và tư cách lưu trú đều được gọi là VISA. Điều này không liên quan đến thẻ tín dụng. ‘Về thị thực’ được quy định là quyền hạn của Bộ Ngoại giao, không phải do Giám đốc cục quản lý nhập cảnh và cư trú khu vực trong nước cấp. Thị thực là cái mà lãnh sự quán hoặc đại sứ quán Nhật Bản ở nước ngoài cấp, sau khi xác nhận hộ chiếu của người nước ngoài là hợp pháp và hợp lệ để nhập cảnh vào Nhật Bản.
tư cách lưu trú được
Theo Luật nhập cảnh, tư cách lưu trú được xác định dựa trên loại hoạt động mà người nước ngoài có thể thực hiện khi nhập cảnh và cư trú tại Nhật Bản. Người nước ngoài nhập cảnh và cư trú tại Nhật Bản, theo nguyên tắc, phải nhận được sự cho phép cư trú tại cảng nhập cảnh và dựa trên tư cách lưu trú được quyết định tại thời điểm đó.
Bài viết này được dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Việt bằng Chat-GPT.
Vui lòng xem trang gốc tại đây.
https://visadeaijapan.com/whatisvisa/